Đạo đức người thầy giáo Việt Nam xưa và nay
Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013
Nhân ngày nhà giáo Việt nam 20.11, chúng tôi mời quý vị suy nghĩ đôi điều về người thầy giáo xưa và nay. Các thầy cô là những kĩ sư tâm hồn” được tôn vinh, là ngày mà dân tộc Việt Nam thể hiện rõ nhất truyền thống “tôn sư trọng đạo
Đạo đức người thầy giáo Việt Nam xưa và nay
Dân tộc Việt Nam - một dân tộc có nền văn hiến hàng ngàn năm với truyền thống “ tôn sư trọng đạo”, một dân tộc rất coi trọng bản sắc văn hoá của mình và không xem nhẹ tinh hoa văn hoá của nhân loại. Vì vậy, dân tộc ấy rất coi trọng lớp người đem lại tinh hoa đó, làm giàu cho tâm hồn mình và nhất là con em mình - thế hệ trẻ, tương lai của dân tộc.
1. Dân tộc Việt Nam - một dân tộc có nền văn hiến hàng ngàn năm với truyền thống “ tôn sư trọng đạo”, một dân tộc rất coi trọng bản sắc văn hoá của mình và không xem nhẹ tinh hoa văn hoá của nhân loại. Vì vậy, dân tộc ấy rất coi trọng lớp người đem lại tinh hoa đó, làm giàu cho tâm hồn mình và nhất là con em mình - thế hệ trẻ, tương lai của dân tộc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tấm gương nhà giáo ngời sáng cả cốt cách và tâm hồn. Những con người đó đã tạo nên phẩm chất đạo đức cao đẹp của người thầy trong truyền thống.
Trước hết, người thầy giáo Việt Nam trong truyền thống là những con người đã vắt trọn công sức và tâm huyết để trao lại cho học trò của mình một thứ tài sản vô giá: “đạo làm người”. Ông thầy là người dẫn dắt con người trở thành con người có đạo đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng. Học trò nào cũng có thể tìm thấy trong nhân cách của mình dấu ấn của người thầy. Trên con đường đời của mình, ai cũng có thể tìm thấy trong sự dạy bảo của thầy những lời khuyên cần thiết cho một cuộc sống có ý nghĩa.
Thứ hai, người thầy giáo trong truyền thống Việt Nam là những con người có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà “hành nghề”. Hành nghề vì sự nghiệp giáo hoá chứ không phải vì danh lợi.
Thứ ba, họ là những người rất coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh hiền, lấy “dạy chữ, dạy người” làm lẽ sống.
Thứ tư, họ là những người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết; xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ, bằng học vấn và cống hiến.
Ai sinh ra trên đời này cũng đều có cha mẹ, sự trưởng thành cũng đều có công lao to lớn của người thầy. Người thầy không chỉ dạy ta chữ nghĩa, kiến thức mà còn dạy ta biết làm người cho đúng nghĩa. Nhìn lại những thời kỳ xa xưa nền văn hiến của dân tộc, chúng ta sẽ gặp biết bao nhà giáo dục mẫu mực, lỗi lạc. Từ triều Lê, giáo dục nho học ở nước ta đã phát triển rộng rãi, hầu như không có làng xã nào ở đồng bằng mà không có các lớp học chữ Hán ở trình độ nhập môn. Dường như tất cả mọi người đã theo Nho học đều là thầy dạy, dân ta quen gọi là thầy đồ. Thầy vừa dạy, vừa học, dạy hết chữ thì để học sinh đi học thầy đồ khác. Đó là tình trạng phổ biến của trường lớp Nho học thời xưa.
2. Lịch sử giáo dục dân tộc dưới thời phong kiến vẫn còn lưu lại nhiều tên tuổi các thầy giáo nổi tiếng về đạo đức, khí tiết, học vấn uyên thâm, về thành tựu đã đào tạo, rèn luyện được nhiều người thành đạt, đóng góp cho việc xây dựng đất nước trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao và văn hoá. Có thể nêu tên một số nhà giáo tiêu biểu ấy:
Chu Văn An (1292 – 1370): Là người tài giỏi, đức độ nên được nhiều người kính trọng. Đời vua Trần Minh Tông ông được giao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám và phụ trách việc dạy dỗ các Hoàng tử, Vương tôn. Đến đời vua Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin chém đầu bảy tên nịnh thần nhưng không được chấp nhận nên cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng. Khi ông mất Trần Nghệ Tông truy phong là Văn Trịnh Công rồi cho thờ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngay từ khi còn sống nhân dân luôn ca ngợi phẩm chất thanh cao tuyệt vời của ông và coi ông là người thầy vĩ đại. Cuộc đời của ông dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm thì bản chất luôn là một thầy giáo mẫu mực. Ông được đánh giá là nhà sư phạm toàn diện nhất trong lịch sử đất nước. Trong suốt cuộc đời hành nghề giáo dục, Chu Văn An đã dạy hầu hết các học sinh từ thấp đến cao, từ bình dân đến quý tộc. Ông nỗ lực giảng giải các học thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều kiện để đưa lý thuyết Khổng Mạnh đi dần đến chỗ độc tôn. Ông có một phương pháp giảng dạy rất đặc biệt nên hấp dẫn được học trò và làm cho mọi người phải tôn kính. Tài, đức của ông làm cho quỷ thần cũng phải kính phục và đến để học tập. Phan Huy Chú đã ca ngợi: Học nghiệp thuần tuý, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có một ông, các ông khác không thể nào so sánh được.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585): Trong hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI, có thể nhận thấy rằng nhân dân Việt Nam đang có một sự trông ngóng về một con người có tài năng siêu việt và là chỗ dựa tinh thần cho mọi người. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện và ngay lập tức được đón nhận. Người ta thấy rằng ông quả là bậc hiền tài mà họ trông chờ, ông mang đủ tư cách của một ông thầy đáng để cho họ quý trọng. Bằng vốn văn hoá phong phú của mình, ông đã cô đúc được rất nhiều triết lý của cuộc sống. Ông nêu ra được những phạm trù biện chứng, ông giáo dục đạo đức làm người và phê phán những thói hư tật xấu. Nhưng dù khen, chê hay dạy dỗ thì ngôn ngữ, phong cách và tư tưởng của ông vẫn rất bình dị, gần gũi. Đó cũng là một khía cạnh đáng quý trong con người ông. Thực ra những điều ông nói vẫn là sự thực mà ai cũng biết, ông chỉ là người cô đúc, hệ thống lại các triết lý đó rồi dựa vào đó để đi sâu phân tích, để triết lý được đầy đủ hơn. Nhờ vậy, ông đã làm nổi bật thực trạng xã hội và thức tỉnh được lương tri cao đẹp của con người trong cuộc sống xô bồ. Nhân dân luôn coi ông là một người thầy xuất sắc, một học giả uyên bác đã có công cảnh tỉnh họ, đã bày cho họ một lối ứng xử thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Biết được những cách xử thế đó, nhân dân lao động có thể tồn tại vững vàng giữa bao nhiêu chuyện mất còn thị phi của chế độ phong kiến đang ở bước suy vong.
Lê Quý Đôn (1726 -1784): Ông được mọi người biết đến với những công trình văn hoá, văn học xuất sắc và ông còn nổi tiếng là một nhà nho, một nhà giáo dục có đức độ, tài năng. Ông mở trường lớp, thu nhận học trò và dạy họ những kiến thức, những đạo đức làm người nên tình cảm của học trò đối với ông rất sâu sắc. Khi Lê Quý Đôn mất, Bùi Huy Bích – một học trò rất thành đạt của ông đã làm bốn bài văn tế thầy đã nói “Thông minh nhất đời, đọc rộng các sách, trước thuật văn chương đủ dạng đời và lưu truyền về sau. Nước ta trong vài trăm năm nay mới có người như vậy”, “Sự dạy bảo của thầy không liệt vào năm bậc luân thường nhưng năm bậc luân thường cũng từ đó mà sắp đặt. Trang phục của học trò không ghi trong tang lễ nhưng không phải tang lễ có thể ra trang phục…ơn dạy bảo sâu dày mà không thể báo đền, tình mến cảm triền miên mà không bao giờ hết được”(4).
Sang thế kỷ XX, dân tộc ta lại có biết bao nhà giáo lỗi lạc, đã tiếp bước những thế hệ đi trước, làm rạng danh thêm nét đẹp của nhà giáo Việt Nam. Như thầy giáo Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng kiệt xuất, một nhà giáo tiêu biểu. Người ta cho rằng, cả Việt Nam hội tụ trong Người, cả Việt Nam tự nguyện sống và học tập theo gương Người, trung thành đi theo con đường mà Người đã chọn… Chỉ những điều đó cũng đủ nói lên tư cách thầy giáo của Người. Và Người không chỉ là người thầy của thế kỷ XX mà còn là ngọn lửa sáng soi cho các thế kỷ sau. Các thầy giáo Đặng Thai Mai, Hoàng Như Mai, Phạm Huy Thông, Nguyễn Lân… cũng đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong lòng mỗi người dân nước Việt. Nhìn lại quá khứ, hiện tại, tương lai có những người đã từ lâu an nghỉ trong lòng đất, có những người tóc đã bạc trắng, có những người đang cùng học trò tíêp tục cuộc hành trình kiếm tìm chân lý mà các thế hệ trước còn dang dở. Nhưng, những con người đó đã tạo nên những nét đẹp về nhân cách, phẩm chất đạo đức cao cả của người thầy, được nhân dân tôn vinh và quý trọng từ xưa đến nay trong truyền thống dân tộc.
Giáo sư Bùi Duy Tân viết về thầy Cao Xuân Huy: Chỉ với kiến thức văn chương còn hạn hẹp, chúng con đã thấy thầy là một trong số ít những danh nhân văn hoá lớn của thời đại. Thầy thuộc lớp người xưa nay cực hiếm, với trước hết là một nhân cách thường thấy ở những bậc vĩ nhân. Giáo sư Nguyễn Trường Lịch viết về thầy Hoài Thanh: Ai đã học với thầy năm đó chắc không thể quên thầy dặn cả hai lớp đến trăm người rằng: Các anh, các chị làm nghề văn phải thuộc cuộc đời, phải am hiểu cuộc sống. Tôi cảm nhận được “vị nghệ thuật” của thầy vẫn là bắt nguồn từ cuộc sống, sống phải hiểu đặc trưng nghệ thuật …
3. Ngày nay với sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động không nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung, đạo đức người thầy nói riêng. Sự tác động hai mặt của kinh tế thị trường đang làm cho đạo đức xã hội biến đổi theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Vì vậy, mỗi người thầy giáo Việt Nam trong điều kiện hiện nay, để tiếp nối được truyền thống đạo đức cao đẹp của người thầy giáo; để xứng đáng với lòng mong đợi của toàn xã hội; để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển thì phải không ngừng trau dồi, hoàn thiện bản thân cả đức lẫn tài để đáp ứng được những đòi hỏi và kỳ vọng của xã hội.
Mỗi người thầy giáo cần phát huy những phẩm chất cao đẹp của người thầy giáo trong truyền thống dân tộc. Mỗi người thầy giáo hôm nay cũng luôn phải là người có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà hành động, phấn đấu. Hành nghề vì sự nghiệp giáo dục chứ không phải vì quyền lợi vật chất. Họ cũng luôn luôn phải là người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ chứ không phải bằng quyền lực chính trị, bằng tiền bạc… Họ phải là những người rất coi trọng tri thức, coi trọng chữ nghĩa, tôn thờ đạo thánh hiền.
Ông thầy ngày nay vừa phải chú trọng tri thức khoa học vừa phải biết kết hợp với thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc về “sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”, nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành. Mỗi người thầy không những phải trang bị cho học sinh tri thức mà còn phải giúp họ tìm được phương pháp học tập và làm việc có hiệu quả cao.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới, trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ, phát huy những giá trị cao đẹp của đạo đức người thầy trong truyền thống nói riêng; Để tạo ra một lớp người Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trò không nhỏ.
Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác “dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà sư phạm mà còn là nhà mô phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm, thành công không kiêu căng, thất bại không nản chí, thương yêu, gần gũi học sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh- đó là nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị gốc “giá trị sinh ra mọi giá trị”. Những người thầy giáo của hôm nay và mai sau hãy tự hào với truyền thống vẻ vang của nghề mình và cùng chung sức để làm cho truyền thống đó ngày càng được tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh.
1. Dân tộc Việt Nam - một dân tộc có nền văn hiến hàng ngàn năm với truyền thống “ tôn sư trọng đạo”, một dân tộc rất coi trọng bản sắc văn hoá của mình và không xem nhẹ tinh hoa văn hoá của nhân loại. Vì vậy, dân tộc ấy rất coi trọng lớp người đem lại tinh hoa đó, làm giàu cho tâm hồn mình và nhất là con em mình - thế hệ trẻ, tương lai của dân tộc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tấm gương nhà giáo ngời sáng cả cốt cách và tâm hồn. Những con người đó đã tạo nên phẩm chất đạo đức cao đẹp của người thầy trong truyền thống.
Trước hết, người thầy giáo Việt Nam trong truyền thống là những con người đã vắt trọn công sức và tâm huyết để trao lại cho học trò của mình một thứ tài sản vô giá: “đạo làm người”. Ông thầy là người dẫn dắt con người trở thành con người có đạo đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng. Học trò nào cũng có thể tìm thấy trong nhân cách của mình dấu ấn của người thầy. Trên con đường đời của mình, ai cũng có thể tìm thấy trong sự dạy bảo của thầy những lời khuyên cần thiết cho một cuộc sống có ý nghĩa.
Thứ hai, người thầy giáo trong truyền thống Việt Nam là những con người có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà “hành nghề”. Hành nghề vì sự nghiệp giáo hoá chứ không phải vì danh lợi.
Thứ ba, họ là những người rất coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh hiền, lấy “dạy chữ, dạy người” làm lẽ sống.
Thứ tư, họ là những người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết; xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ, bằng học vấn và cống hiến.
Ai sinh ra trên đời này cũng đều có cha mẹ, sự trưởng thành cũng đều có công lao to lớn của người thầy. Người thầy không chỉ dạy ta chữ nghĩa, kiến thức mà còn dạy ta biết làm người cho đúng nghĩa. Nhìn lại những thời kỳ xa xưa nền văn hiến của dân tộc, chúng ta sẽ gặp biết bao nhà giáo dục mẫu mực, lỗi lạc. Từ triều Lê, giáo dục nho học ở nước ta đã phát triển rộng rãi, hầu như không có làng xã nào ở đồng bằng mà không có các lớp học chữ Hán ở trình độ nhập môn. Dường như tất cả mọi người đã theo Nho học đều là thầy dạy, dân ta quen gọi là thầy đồ. Thầy vừa dạy, vừa học, dạy hết chữ thì để học sinh đi học thầy đồ khác. Đó là tình trạng phổ biến của trường lớp Nho học thời xưa.
2. Lịch sử giáo dục dân tộc dưới thời phong kiến vẫn còn lưu lại nhiều tên tuổi các thầy giáo nổi tiếng về đạo đức, khí tiết, học vấn uyên thâm, về thành tựu đã đào tạo, rèn luyện được nhiều người thành đạt, đóng góp cho việc xây dựng đất nước trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao và văn hoá. Có thể nêu tên một số nhà giáo tiêu biểu ấy:
Chu Văn An (1292 – 1370): Là người tài giỏi, đức độ nên được nhiều người kính trọng. Đời vua Trần Minh Tông ông được giao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám và phụ trách việc dạy dỗ các Hoàng tử, Vương tôn. Đến đời vua Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin chém đầu bảy tên nịnh thần nhưng không được chấp nhận nên cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng. Khi ông mất Trần Nghệ Tông truy phong là Văn Trịnh Công rồi cho thờ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngay từ khi còn sống nhân dân luôn ca ngợi phẩm chất thanh cao tuyệt vời của ông và coi ông là người thầy vĩ đại. Cuộc đời của ông dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm thì bản chất luôn là một thầy giáo mẫu mực. Ông được đánh giá là nhà sư phạm toàn diện nhất trong lịch sử đất nước. Trong suốt cuộc đời hành nghề giáo dục, Chu Văn An đã dạy hầu hết các học sinh từ thấp đến cao, từ bình dân đến quý tộc. Ông nỗ lực giảng giải các học thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều kiện để đưa lý thuyết Khổng Mạnh đi dần đến chỗ độc tôn. Ông có một phương pháp giảng dạy rất đặc biệt nên hấp dẫn được học trò và làm cho mọi người phải tôn kính. Tài, đức của ông làm cho quỷ thần cũng phải kính phục và đến để học tập. Phan Huy Chú đã ca ngợi: Học nghiệp thuần tuý, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có một ông, các ông khác không thể nào so sánh được.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585): Trong hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI, có thể nhận thấy rằng nhân dân Việt Nam đang có một sự trông ngóng về một con người có tài năng siêu việt và là chỗ dựa tinh thần cho mọi người. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện và ngay lập tức được đón nhận. Người ta thấy rằng ông quả là bậc hiền tài mà họ trông chờ, ông mang đủ tư cách của một ông thầy đáng để cho họ quý trọng. Bằng vốn văn hoá phong phú của mình, ông đã cô đúc được rất nhiều triết lý của cuộc sống. Ông nêu ra được những phạm trù biện chứng, ông giáo dục đạo đức làm người và phê phán những thói hư tật xấu. Nhưng dù khen, chê hay dạy dỗ thì ngôn ngữ, phong cách và tư tưởng của ông vẫn rất bình dị, gần gũi. Đó cũng là một khía cạnh đáng quý trong con người ông. Thực ra những điều ông nói vẫn là sự thực mà ai cũng biết, ông chỉ là người cô đúc, hệ thống lại các triết lý đó rồi dựa vào đó để đi sâu phân tích, để triết lý được đầy đủ hơn. Nhờ vậy, ông đã làm nổi bật thực trạng xã hội và thức tỉnh được lương tri cao đẹp của con người trong cuộc sống xô bồ. Nhân dân luôn coi ông là một người thầy xuất sắc, một học giả uyên bác đã có công cảnh tỉnh họ, đã bày cho họ một lối ứng xử thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Biết được những cách xử thế đó, nhân dân lao động có thể tồn tại vững vàng giữa bao nhiêu chuyện mất còn thị phi của chế độ phong kiến đang ở bước suy vong.
Lê Quý Đôn (1726 -1784): Ông được mọi người biết đến với những công trình văn hoá, văn học xuất sắc và ông còn nổi tiếng là một nhà nho, một nhà giáo dục có đức độ, tài năng. Ông mở trường lớp, thu nhận học trò và dạy họ những kiến thức, những đạo đức làm người nên tình cảm của học trò đối với ông rất sâu sắc. Khi Lê Quý Đôn mất, Bùi Huy Bích – một học trò rất thành đạt của ông đã làm bốn bài văn tế thầy đã nói “Thông minh nhất đời, đọc rộng các sách, trước thuật văn chương đủ dạng đời và lưu truyền về sau. Nước ta trong vài trăm năm nay mới có người như vậy”, “Sự dạy bảo của thầy không liệt vào năm bậc luân thường nhưng năm bậc luân thường cũng từ đó mà sắp đặt. Trang phục của học trò không ghi trong tang lễ nhưng không phải tang lễ có thể ra trang phục…ơn dạy bảo sâu dày mà không thể báo đền, tình mến cảm triền miên mà không bao giờ hết được”(4).
Sang thế kỷ XX, dân tộc ta lại có biết bao nhà giáo lỗi lạc, đã tiếp bước những thế hệ đi trước, làm rạng danh thêm nét đẹp của nhà giáo Việt Nam. Như thầy giáo Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng kiệt xuất, một nhà giáo tiêu biểu. Người ta cho rằng, cả Việt Nam hội tụ trong Người, cả Việt Nam tự nguyện sống và học tập theo gương Người, trung thành đi theo con đường mà Người đã chọn… Chỉ những điều đó cũng đủ nói lên tư cách thầy giáo của Người. Và Người không chỉ là người thầy của thế kỷ XX mà còn là ngọn lửa sáng soi cho các thế kỷ sau. Các thầy giáo Đặng Thai Mai, Hoàng Như Mai, Phạm Huy Thông, Nguyễn Lân… cũng đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong lòng mỗi người dân nước Việt. Nhìn lại quá khứ, hiện tại, tương lai có những người đã từ lâu an nghỉ trong lòng đất, có những người tóc đã bạc trắng, có những người đang cùng học trò tíêp tục cuộc hành trình kiếm tìm chân lý mà các thế hệ trước còn dang dở. Nhưng, những con người đó đã tạo nên những nét đẹp về nhân cách, phẩm chất đạo đức cao cả của người thầy, được nhân dân tôn vinh và quý trọng từ xưa đến nay trong truyền thống dân tộc.
Giáo sư Bùi Duy Tân viết về thầy Cao Xuân Huy: Chỉ với kiến thức văn chương còn hạn hẹp, chúng con đã thấy thầy là một trong số ít những danh nhân văn hoá lớn của thời đại. Thầy thuộc lớp người xưa nay cực hiếm, với trước hết là một nhân cách thường thấy ở những bậc vĩ nhân. Giáo sư Nguyễn Trường Lịch viết về thầy Hoài Thanh: Ai đã học với thầy năm đó chắc không thể quên thầy dặn cả hai lớp đến trăm người rằng: Các anh, các chị làm nghề văn phải thuộc cuộc đời, phải am hiểu cuộc sống. Tôi cảm nhận được “vị nghệ thuật” của thầy vẫn là bắt nguồn từ cuộc sống, sống phải hiểu đặc trưng nghệ thuật …
3. Ngày nay với sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động không nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung, đạo đức người thầy nói riêng. Sự tác động hai mặt của kinh tế thị trường đang làm cho đạo đức xã hội biến đổi theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Vì vậy, mỗi người thầy giáo Việt Nam trong điều kiện hiện nay, để tiếp nối được truyền thống đạo đức cao đẹp của người thầy giáo; để xứng đáng với lòng mong đợi của toàn xã hội; để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển thì phải không ngừng trau dồi, hoàn thiện bản thân cả đức lẫn tài để đáp ứng được những đòi hỏi và kỳ vọng của xã hội.
Mỗi người thầy giáo cần phát huy những phẩm chất cao đẹp của người thầy giáo trong truyền thống dân tộc. Mỗi người thầy giáo hôm nay cũng luôn phải là người có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà hành động, phấn đấu. Hành nghề vì sự nghiệp giáo dục chứ không phải vì quyền lợi vật chất. Họ cũng luôn luôn phải là người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ chứ không phải bằng quyền lực chính trị, bằng tiền bạc… Họ phải là những người rất coi trọng tri thức, coi trọng chữ nghĩa, tôn thờ đạo thánh hiền.
Ông thầy ngày nay vừa phải chú trọng tri thức khoa học vừa phải biết kết hợp với thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc về “sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”, nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành. Mỗi người thầy không những phải trang bị cho học sinh tri thức mà còn phải giúp họ tìm được phương pháp học tập và làm việc có hiệu quả cao.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới, trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ, phát huy những giá trị cao đẹp của đạo đức người thầy trong truyền thống nói riêng; Để tạo ra một lớp người Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trò không nhỏ.
Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác “dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà sư phạm mà còn là nhà mô phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm, thành công không kiêu căng, thất bại không nản chí, thương yêu, gần gũi học sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh- đó là nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị gốc “giá trị sinh ra mọi giá trị”. Những người thầy giáo của hôm nay và mai sau hãy tự hào với truyền thống vẻ vang của nghề mình và cùng chung sức để làm cho truyền thống đó ngày càng được tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét